còn lại gì đằng sau sự chết

X-Men - All Media Types
M/M
G
còn lại gì đằng sau sự chết
author
Summary
Gã nhìn vào Logan như nhìn vào khoảng không thăm thẳm, vào cái vết đạn sâu hoắm điểm trên thái dương. Rồi không lâu sau thì trời mưa.1969 là năm như thế nào?Năm 1969 là khi chiến tranh ở nửa kia vòng địa cầu vẫn chưa kết thúc, khi mùa thu Logan tự sát trong bồn, để lại David một mình lo chuyện hậu sự và con bé con thì cứ khóc mãi không ngừng.Đấy là năm 1969.

Ba ngày sau thì Logan chết. Lúc âm thanh ấy đột ngột vang lên thì cũng như chính cái chết của ông lão, dứt khoát và rạch ròi. Hằng đang mò vọc với cái máy giặt thì nghe thấy, con bé đánh rơi cả giỏ quần áo, nhìn nhớn nhác trước khi dùng hết sức bình sinh để lao ra ngoài.

Nó vấp ngã trên bậc thềm một cái, lại chập choạng đứng lên. 

David khựng lại lưng chừng. Gã chẳng cần phải đến tận nơi để hiểu chuyện gì đã xảy tới. Thoạt tiên một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng, rồi tới máu rút khỏi khuôn mặt như lũ cuốn. Gã rũ người xuống, tay chân bải hoải nhũn ra, bị oanh tạc bởi hệ quả mặc định xảy ra đằng sau tiếng súng. 

Thực tình thì gã không hẳn là thấy đau. Không hề. Giống khi lưỡi dao lia qua ba ngón tay và để nó dứt thân khỏi chủ thể. Hoặc lúc viên đạn đục xuyên xương đòn và cướp đi khả năng hoạt động bình thường của cánh tay. Quá chăng là tương tự cảm giác cả tiểu đội ngã xuống ngay trước mắt nhưng gã là kẻ duy nhất còn ở lại. Không bao giờ đau như thế. Chỉ mất chừng dăm phút trước khi gã có thể bình tĩnh bước ra, sẵn sàng đối mặt với một kết cục đã được định sẵn. 

Khi gã sang thì Hằng đã đứng khóc tức tưởi được một lúc rồi. Con bé cứ bóp cả khuôn mặt và hơi thở trong hai bàn tay, đầu ghì chặt trên tường, một nỗ lực tuyệt vọng để giữ bản thân còn đứng vững bằng hai chân ngay trước cửa phòng tắm.

Chuyện ở đây cứ để bố lo nhé. David bảo, vỗ vỗ con bé rồi dắt nó về nhà.

Gã thấy Logan ngồi tựa cạnh vòi nước. Hẳn suy nghĩ ấy đã tới rất nhanh, vì xì gà mới cháy tới gần đầu điếu vẫn đang nằm gác trên cái gạt tàn ở cạnh bồn. Thơ mộng. Vậy đây là cái người ta đã nói, về chương cuối cùng trong quá trình tiến triển không ngừng của nỗi đau. Trước mắt gã là khung cảnh về mặt thị giác đẹp gọn gàng như được sắp đặt có chủ ý, với máu bắn tóe thành một vệt sắc cứng trên nền đá lát mosaic màu xanh thông, còn Logan lặng yên như người chỉ đang say ngủ.

Xét ra, phương thức ra đi của ông không đủ tương đồng để so sánh với bất kỳ sự ra đi nào khác cũng diễn ra trong bồn tắm mà gã biết, mà thường có đặc trưng là ướt át bì bọp. Cái chết của Logan thiếu đi những nét chấm phá, những điểm ấn tượng ghê sợ mà người ta thường tạo dựng cho một sự chết, đem trình bày cáo phó lại cho đời. Hẳn Logan chỉ đang nấu ăn, cái nồi thịt trên bếp mà hai tiếng sau khi sờ vào vẫn thấy còn âm ấm ấy. Và rồi đột ngột điều gì lẻn vào trong những suy nghĩ, chốt hạ ông. Ông bỏ hết bếp núc, chỉ cầm theo xì gà, huân chương, gạt tàn cùng súng đi vào nhà tắm. Ông ném cái Huân chương Sao Bạc cao quý vào bồn cầu mà không thèm xối nước, rồi châm lửa rít một hơi cuối cùng trước khi từ giã cõi đời. Thế là hết. Logan đi và để lại cho gã không gì ngoài một cảnh sự đẹp vô ngần.

Gã nhìn vào Logan như nhìn vào khoảng không thăm thẳm, vào cái vết đạn sâu hoắm điểm trên thái dương. Rồi không lâu sau thì trời mưa.

1969 là năm như thế nào?

Năm 1969 là khi chiến tranh ở nửa kia vòng địa cầu vẫn chưa kết thúc, khi mùa thu Logan tự sát trong bồn, để lại David một mình lo chuyện hậu sự và con bé con thì cứ khóc mãi không ngừng.

Đấy là năm 1969.

***

Khởi sự là khi David trở về đất Mỹ với hai câu chuyện để kể. Chuyện buồn là gã đã mất ba ngón tay, nhưng tin vui đây, là gã chỉ mất có ba ngón tay. Gã thường hay kể thế. Rằng tin vui là mình đã trở về được từ chiến tranh, chỉ mất có ba ngón tay và còn đưa được Hằng - cô con nuôi của mình về. Và bất chấp việc phong trào phản đối chiến tranh nổi dậy làm người ta căm ghét gã ra mặt vì đeo trên mình thân phận lính chiến trở về từ Việt Nam, thì gã vẫn kể về nó như thế đó là một chiến công, với bàn tay phải chỉ còn bốn ngón, trong khi bàn tay trái còn có ba.

Gã đưa con bé chuyển về ngoại ô Kansas.

Thực ra đáng lẽ gã phải ở lại Miami. Nhưng nếu thế thì làm gì còn chuyện. 

Thường thì, con bé cứ hay ngồi đấy, ngồi lẩn thẩn ở ngay cái huyền quan, xuyên qua lan can mà trông vào thành phố ngọc ngà độc toàn hình hộp xi măng đầy choáng ngợp, nơi không có bất cứ một chi tiết nào neo được với cuộc sống ở quá khứ đằng sau, cái quá khứ nó không hề bỏ lại kể cả khi nó leo lên máy bay - con chim sắt chở người - rồi đi biền biệt tới Mỹ. Tuần đầu tiên về tới, nó ốm. Ốm liệt một trận nặng. Nó đơn thuần là phát ốm với cái suy nghĩ mình vừa bỏ lại đất mẹ những hàng vạn cây số. David biết Hằng theo mình về tới đây chỉ vì con bé thương gã, và vì nó cũng chẳng còn gì ráo, chứ thực tình không ai ham cái xứ sở đã tặng cho quê nhà của mình hàng triệu ‘quả dân chủ’, thứ chẳng mang lại gì trừ cái chết của tất cả người thân đồng bạn. 

Rồi thì David cũng định đưa nó đi học đấy, nhưng hoá ra mọi chuyện lại phức tạp hơn tưởng tượng. Hằng đã lên mười, mặc nhiên không biết gì ngoài vài chữ cái latinh và tiếng Việt, trong khi vốn tiếng Anh bập bẹ học từ gã cũng chẳng đủ dùng. Cả chuyện thân phận nữa. Bẵng đi lúc gã loay hoay với thủ tục cùng giấy tờ thì cũng chừng ba tháng đã hóa thinh không, mùa hạ dần kết thúc. 

Trong ba tháng ấy, có đôi khi nhìn con bé ngồi bần thần trước cửa, một nỗi bất lực dâng trào bên trong. Gã thấy con gái mình đã bị thành phố này nạo vét tới trơ ra như một cái cây nhiệt đới bị cầm tù ở chốn hoang mạc. Cả đời nó không biết gì nhiều hơn hai từ chiến tranh, nó lạc loài thấy rõ, nó chẳng thuộc về đây. 

Vậy rồi bằng một nỗi trông mong rất đỗi đơn thuần của bậc cha mẹ, chẳng biết sao David lại nghĩ tới vùng ngoại ô Kansas. 

Nghĩ là làm, sau khi gã nhấc máy lên và gọi cho cạ cũ John Wraith - anh ta nghe tin, sắp xếp ổn thỏa đâu ra đấy - chớp nhoáng họ chuyển ngay tới Merriam vào hạ tuần tháng Tám. Mọi chuyện diễn ra nhanh như thế, giống cảnh vật trên xa lộ sau ba tiếng ngồi máy bay, John đánh tay lái nhịp nhàng, nghêu ngao hát, trong lúc ánh nhìn của Hằng dính đăm trên hàng cây dương bất tận, lao vun vút qua cửa kính xe.

Chuyện gặp Logan - John bảo đó là cấp trên trực tiếp của anh ta hồi họ còn ở trên chiến trường Normandie, người có thái độ không mấy tử tế, bất quá thực ra rất tử tế - nói cách khác là một sự giống như cái câu nói ‘mọi con đường đều dẫn đến thành Rome’ ấy, mà gã ngờ rằng số phận đã dồn cho gã, không khi này thì thì khi khác, nhưng phải là tại cái điểm cô cực nhất định trong đời, và tại miền Trung Tây nước Mỹ, chốn kỳ cùng sỏi đá của Merriam, nhất định sẽ gặp được ông. Gã nhớ rất rõ, rõ tới khó thể có thể hình dung được tại sao ngay cả khi tới ngày thứ ba sau khi ông rời đi, David vẫn có thể thấy được bóng hình ngồi thả câu cạnh hồ nước ngay trước cửa nhà họ: Logan Howlett, cựu chiến binh ở tuổi 58, trông không cao nhưng có một vóc dáng ấn tượng khó giấu đằng sau quần jean thụng và áo sơ mi tầm thường. Ông đội cái mũ cao bồi che đi lọn tóc muối tiêu, thả chân ngồi duỗi trong một khung hình bất động. Tay này hờ hững giữ cần, tay kia buông lơi, đầu hơi rũ như ngủ quên. Bất chấp, gã vẫn cảm nhận được ánh mắt của ông bắt được sự hiện diện của ba người, dữ dội, một lưỡi dao sắc lẹm tới cứa đứt tim, một màu xanh day dứt như biển hồ. 

Gã rơi.

Bố ơi. Từ đằng sau Hằng gọi. Bố sao thế?

David sực tỉnh, dứt ra khỏi cái hồ đã rất khác, dù trên thực tế bề ngoài của nó chẳng thay đổi gì so với năm năm trước. Gã chần chờ, nhấp môi, ngón tay dấp dứ ở lưng chừng bậc tam cấp, như vừa bị vụt mất điều gì. Vật mất đi không nặng cũng chả nhẹ, nhưng cái cảm giác bất cam nguyện cứ nghèn nghẹn, ứ lên trong lồng ngực, tựa một cục máu đông trong lá phổi dập nát. Mãi sau qua vài nhịp thở, vài quãng im lặng thì gã mới trả lời. 

Không sao con, chắc bố vừa ngủ quên.

Hằng không nói gì nữa, nhưng nó biết là gã không ngủ. Về những chuyện nó biết mà không nói, giống như tiếng Anh, hay là chữ cái, hoặc cả cái tướng buông cần, tất cả nó đều học từ Logan, và học tới là thuần thục. Con bé cũng đứng, nhìn theo gã về phía cái hồ, tìm tòi điều mà bố nó đang nhìn. Nhưng có gì đâu? Cái hồ vẫn chỉ là cái hồ, tương tự với hàng vạn cái hồ khác ở trên thế gian. Một mặt nước phẳng lặng trong veo phủ bóng hàng dương, không có bất luận một điểm gì đặc biệt đáng để nhìn ngắm.

Thế mà nó biết bố nó đang nhìn điều gì. Nó biết.

Văn phòng gửi bản sao chứng tử về rồi đấy ạ. Lại nhìn ra xa. Bên nhà tang lễ cũng liên hệ lại rồi. Mình còn cả đống giấy tờ phải xử lý bố ơi.

David gật đầu, cựa mình đứng lên.

***

Gã ngủ không sâu giấc. Một sự gì đó cứ trôi tuồn tuột khỏi lòng bàn tay. Như là cát, như là ấm hơn cát, như là mềm và ẩm. Gã cố nắm lấy nhưng không được. Gã vừa mù vừa điếc, mà tay gã thì thiếu ngón, chẳng lành lặn, những thứ vô định gã muốn nắm lấy cứ thoải ra chờn vờn, trườn đi mất. Gã đau lòng không thở nổi, ngực phập phồng khổ sở y như lúc gã kẹt nửa thân ở cái địa đạo thuộc về phía bên kia trái đất, đau mà nước mắt ứa ra thành từng dòng không kiềm lại được. Trong gã chỉ còn có độc một suy tưởng muốn chết. Gã có thể chết liền, chết luôn, chết ngay tắp lự, vá thêm cái cuộc đời của mình vào một hàng dài trong danh sách những người gã đã sát hại, ngay cạnh bên hàng chục đồng đội đã chết ấy. 

Nhưng rồi, có một tiếng động. Hoặc giả, một tiếng gọi. Không biết từ nơi đâu, chốn nào, như một bàn tay chai sạn nhưng ấm áp chạm tới gã. Gã tỉnh.

Nhịp thở dồn dập của David dần chững lại. Mùi xì gà Cuba đắt tiền mà chẳng chiến trường nào có được len qua cánh cửa dội vào. Ấy là bài ca của riêng chốn này, là tuyên ngôn quá đỗi chân thực của Logan, nhẹ nhàng tách gã khỏi cơn mơ bám chặt. David vẫn còn đang run nhưng đã tốt hơn nhiều so với ba phút trước. Gã nằm lịm đi sau cơn căng thẳng, cho tới khi tiếng tim đập quá tải dịu lại thành những nhịp xung nhè nhẹ thì lần tìm trong bóng tối, cựa quậy ngồi dậy. 

Bên ngoài đèn sáng.

Logan.

David chào hỏi đơn giản, đứng nơi ánh sáng không chiếu tới. Toàn bộ gương mặt gã như thể đang chìm trong vùng tối của mặt trăng, thẳng thớm, bất di bất dịch tương đương một vệt sơn lạc loại dính cứng trên mảng tường. Đối diện với tầm mắt gã, Logan ngồi gác hai chân lên thành bếp, nơi đèn vàng trải ra trên cơ thể ông, biến hình hài dữ dội thành một khối ấm áp chìm trong khói đẹp đẽ tới khó có thể khước từ. Ông già chẳng nói gì nhiều, cũng chẳng quay lại nhìn, thong thả nhả ra vài đường, vờn quanh ngón tay đang lơi tàn thuốc rơi lả tả xuống sàn. 

Gã lê thân lại gần, ngồi cạnh. Sao chú lại sang đây? 

Hằng đấy. Con bé bảo cậu lên cơn rồi, không lay tỉnh được. Nó ngủ ở nhà tôi, đợi mai rồi sang đón con sau.

Ông lôi ra một cái bình hông mà rõ ràng là dùng đựng rượu đưa cho gã. David nhận lấy, mở uống một ngụm, đốt lên những đốm lửa nóng bừng trong khoang miệng và trên vòm họng. Ông không nói gì nữa, để mặc gã uống, lẳng lặng trông ra màn đêm tối đen như mực.

Logan cứ luôn như vậy, trừ những lúc cảm xúc dâng lên đột ngột, thì thường ông luôn định hình bản thân trong trạng thái điềm nhiên tĩnh lặng. Người đàn ông lưng chừng tuổi 58, chắc chắn không còn trẻ nhưng chưa phải quá già, bất quá, luôn có biểu hiện kỳ bí huyền diệu của một con người bị buộc phải sống quá lâu, lâu tới mức ông dần sở hữu khả năng tách bản thân ra khỏi thực tại và nhốt mình trong một không gian khác thật tình điêu luyện. Rồi cũng thực mâu thuẫn. Ông rời đi nhưng không hẳn là rời đi. Logan giống cái ví dụ rõ rệt cho một sự tồn tại lưng chừng ranh giới giữa cõi chung và cõi riêng, vừa đặt một mảnh nhỏ bản thể của mình trong nhân thế, vừa khéo léo lánh đi, từ chối tiếp nhận nó. Tương tự như lúc này ông nơi đây đắm mình dưới ánh đèn le lói, hoàn toàn nhận thức được chuyện gì đã xảy ra nhưng tuyệt nhiên sẽ không bao giờ hỏi. David cứ nghĩ về Logan - người ngồi ngay bên cạnh nhưng lại như xa xôi lắm - một vật thể không hề cô đơn, cũng cùng cực cô đơn. Gã cho rằng bản thân là kẻ mang trên mình vô số vết nứt, nhưng ông già kia, hoặc là cất giấu, hoặc là đã vỡ tan tới thê thảm, không còn gì để phô ra cho người ta trông thấy nữa.

Gã nhìn ông, lọt vào mắt không gì ngoài một mảng sương mù. Lâu sau Logan đứng dậy hỏi có muốn dạo một vòng quanh hồ không. Gã bảo có.

Và rồi tỉnh giấc. 

David cựa mình, nhập nhằng nhìn về phía cánh cửa. Gã thầm trông mong đèn sáng nhưng thực tế chẳng có gì cả. Dội vào mắt không còn ánh đèn vàng chìm trong sương khói, chỉ có màn đêm đọng lại đang cố biến căn nhà thành khoảng mênh mông ủ dột.

_

Con bé viết cáo phó bằng chính cái ngữ pháp cụt lủn của nó, ngắn y như những gì Logan phơi cho đời biết về bản thân ông.

Ông Logan Howlett, người bạn già của chúng ta đã ra đi vào ngày 19 tháng 8 năm 1969, bởi những rối ren trong tâm hồn mà không ai có thể vuốt phẳng. Gửi những người đồng bạn biết tới ông, lễ viếng công khai sẽ được diễn ra trong khung từ 2 tới 6 giờ chiều ngày 27 tháng 8 năm 1969, tại nhà riêng của ông tọa ở Merriam, Kansas.

Xin đừng mang hoa.

Và thế là hết, hết tới mức là trơ trọi rốt ráo. Hằng không gắn kèm ảnh vì nếu họ biết tới ông ấy thật thì cần gì cần ảnh nữa, mình cũng không định đăng báo mà. Sau đó nó chớp mắt như còn đang ngẫm ngợi, chậm rãi rơm rớm nước mắt, với cả, con đọc được là người ta bảo phải chọn ảnh vui. Mình không có tấm ảnh nào như thế về Logan cả. 

Nói đến đây thì thực không cãi lại nổi. Sau đó trong lúc gã chỉnh lại phần địa điểm chi tiết trên cáo phó thì con bé lần tìm thông tin khách mời qua danh bạ của Logan - cốt để gom lại báo tin một loạt - mà ra là chẳng có mấy ai, chưa kể toàn những cái tên không bao giờ thấy ông già nhắc tới. Nó lật qua giở lại cái cuốn sổ ghi chưa đầy hai trang xong thở dài đánh thượt, khe khẽ sụt sịt. Hằng co tròn người trên ghế, sổ đặt bên chân. Nó bảo mình nên chắp bút một bản điếu văn tử tế hơn cái cáo phó này. Gã đồng ý. 

***

Giám định viên y khoa đã đi tới cửa, chuyên môn nghiệp vụ cùng những tờ giấy khám chứng nhận sức khỏe tâm thần không ổn định giúp người ta nhanh chóng nhận định nguyên nhân cái chết của ông quả thật là tự sát. Vì Logan không có họ hàng hay con cái nên họ giúp gã thủ tục này kia với bên cấp giấy chứng tử, thậm chí còn hướng dẫn cả khâu liên hệ nhà tang lễ thật thỏa đáng rồi mới rời đi. 

Chuyện nhận được tro cốt của Logan là năm ngày sau hôm ấy. Hằng hỏi gã hỏa táng là như thế nào, và gã bắt đầu giảng giải. Về sự bốc hơi trước sức nóng trong lò hóa thân, về khi lửa nghiền da tóc nhục thể thành tro, xương cũng vôi hóa và trở nên giòn rụm. Sau mọi quá trình, phần sót lại là tàn dư hỏa táng, những thứ người ta sẽ cho vào máy, nghiền thành bột và hòa lại về với tàn tro của thi thể.

Khi David luồn tay dưới cơ thể của Logan, trong giây lát gã tưởng mình sẽ ngửi thấy mùi của cái chết, nhưng thế mà lại không. Cơ thể ông chừng như còn vương nồng hương cỏ, lẫn với mùi xì gà và whiskey, trong khi máu vợn thành tơ vơ vẩn quấn lấy. Ông giống như đang sống, ngoại trừ sự thật là ông đã chết. Và gã phải tự hỏi cái chết có làm da thịt ông trơn cùng mướt hơn không, vì ông không hẳn là nặng, nhưng phải chật vật mãi mới nhấc được ông ra. 

Hỏa táng là như thế nào? Nếu được trả lời theo một cách khác, gã sẽ nói về bản thân trong ba tiếng đợi chờ Logan cùng mọi dôi dư của ông vỡ thành cát bụi.

David tìm được cuốn Ngũ Luân Thư khi dọn dẹp di vật. Cuốn sách không quá dày, cũng chẳng quá mỏng, chỉ là đặc biệt vàng vọt cũ kỹ, rải rác đầy những hoen ố màu nâu sậm. Gã không biết những cái tên, một mạng lại một mạng bồi đắp thành nghĩa trang vô tận trên giấy, đôi khi là bằng mực, đôi khi bằng than, thậm chí viết cả bằng máu, trong đó những ai đã chết vì ông, những ai đã chết do ông, lại ai là người đã chết thay ông.

Ta sống để rồi ta sẽ phải chết. Gã luôn tự nhắc nhở thế sau khi từ chiến tranh trở lại, chuẩn bị cho mình một tâm thái bình thản trước mọi sự ra đi, kể cả sự ra đi của chính bản thân mình. Chiêm nghiệm đi. Cảm nhận lấy nó như một sự kiện bất biến của nhân sinh. Mọi con người và mọi sự rồi sẽ chết, gã tin là kể cả sỏi đá. Chết hết, những não và tim, nhục thân cùng linh trí, chết cả tuổi trẻ gom với ước mơ. Trước cái sự đương nhiên và định sẵn ấy, thì mọi mưu cầu hay ước vọng, bất kể có đạt được hay không, khi ta chết là ta lôi tuồn tuột tất cả xuống mồ.

Logan chết mang theo rất nhiều nỗi đau.

Sinh thời ông nặng gần tám mươi ký. Sau khắc tử tận, phần còn lại chỉ tương đương với gần 300 insơ khối, gói gọn trong cái bình trơn nhẵn chẳng kèm hoa văn. Gã giữ lấy, không thể tin được. Nhưng buộc phải tin.

Đột ngột một suy nghĩ cuốn lấy gã, rằng thực là do thế, hẳn phải thế, rằng một lẽ chỉ khi cơ thể Logan nhẹ hơn những gì ông mang, thì ông mới gục ngã.

***

Đôi lúc David ước thà rằng Logan rời đi vì bệnh tuổi già, cái điều đáng lẽ sơ sẩy ra là nhảy ùm vào số phận mấy người ở quãng sáu mươi ấy, như thế thì đã dễ viết hơn. Một giờ sáng, gã cắm rễ bên bàn trà, cặm cụi đánh máy. Hằng đã ngủ từ lâu, thực ra là khóc ngất đi mới đúng. Con bé đột ngột bùng nổ sau khi nếm thử nồi súp gà mình nấu. Nó bật lên nức nở, trôi tuột vào nỗi buồn, trườn xuống dưới gầm bếp khóc lóc ủ ê. Hương vị của món ăn thật giống, hơi quá giống những gì Logan nấu. Điều mà nó âm thầm tự hào giờ đây trở thành sợi dây dằn vặt đau thắt cả tim gan. Nó bỏ bê chả ăn uống gì nữa.

Hôm nay, chúng ta tụ họp nơi đây, trong không khí nặng nề của nỗi buồn, để tưởng nhớ và tri ân một người bạn. Nương theo quyết định của Đấng Thiên Thượng, linh hồn của ông đã được trao lại cho Chúa __

_ngừng

David ngưng tay. Gã nhìn chằm chằm vào những câu từ đầu tiên và thấy thật sai lầm. Bởi trong một nghìn điều dẫn tới cái chết của Logan, thì chưa bao giờ có thánh thần nơi ấy. Và bởi nếu gã muốn gọi ông là gì, thì chưa bao giờ là một người bạn. 

Ông có mùi cỏ úa. Một mùi hương say đắm ngược chiều kim đồng hồ lan tới. Trời nắng nhưng gắt gió, Logan mang con xế hộp leo qua hai dãy đồi với cửa sổ mở tung. Ông đánh lái, cua, dò ga thiện nghệ. Chiếc xe lướt qua đường mòn, đoạn đâm thẳng vào trảng cỏ rồi ngừng lại. Thường ông không dừng xe ở đấy, nhưng Logan rất khó đoán, ông khiển mọi sự theo ý mình. 

Khi David tiến đến, thì ông già đang ngồi vắt bên ghế lái uống rượu, chân nhịp nhịp theo radio réo rắt một giọng nam ca lạ lẫm. Qua cái kính chiếu hậu còn sót lại, gã thấy bóng mình lõm bõm toàn đất bùn cùng vụn vặt. Gã thường làm việc cho ông, dọn dẹp cỏ, vớt lá ven hồ, trồng cây, dựng rào, đủ cả. Logan luôn có sự để cho gã bận rộn, tới độ mà đôi khi gã ngờ rằng ông có vẽ chuyện ra không. Nhưng ông trả tới ba mươi đô la cho một buổi công, lại còn nhận dạy Hằng học tiếng. Cớ sự thế lại làm gã mọc ra thêm nỗi nghi vấn thẩn thơ. 

Đấy là buổi trưa tháng Sáu khi “mùa tuyết rơi” của cây dương gần như kết thúc, mùa xuân đã chao mình thành hạ, ông bắt gặp gã qua chính mặt phẳng mờ đục ấy, hơi nâng chai lên thay cho lời chào. Nắng tròng trành bao phủ họ. Ông say. Gã cũng say. Một nụ hôn lưng chừng rơi xuống.

Đôi khi trong cơn say Logan trở nên hung bạo. Cái gương chiếu hậu còn sót lại là chứng nhân may mắn thoát nạn trong những lần ông mất tỉnh táo. Một bữa ông đã tẩn mấy thằng du côn thừa sống thiếu chết đến gần như là hấp hối. Giám định sức khoẻ tâm thần cùng tiền của bừa phứa là điều duy nhất đảm bảo cho ông vẫn còn ngồi đây chứ không phải trong tù. Gã đã chuẩn bị cho một cú đấm giáng xuống, nhưng bữa ấy ông không làm thế. Có một Logan tĩnh tại hơn, nhìn vào gã thật lâu, nhìn xuyên qua gã để thấy một điều gì. Lâu sau ông rủ gã lên xe, nổ máy, bánh xe lăn tròn trong vô định. Cứ còn đường là còn đi. Rồi ông bắt đầu nói. 

Ông đã nói gì nhỉ?

Hằng không biết gã ra khỏi nhà lúc nào. Gã leo lên con xe già nua nhưng vẫn nhạy bén và mượt mà y như chủ nhân quá cố của nó, đánh một vòng quanh hồ quãng trời hưng hửng sáng. Không phải. Gã nhủ thầm. Không phải như thế này. Gã lại đi thêm một vòng nữa, đáy lòng bứt rứt điều gì. Gã cứ nhìn dáo dác chung quanh, lại nhìn kính chiếu hậu, nhìn vào cả gương trung tâm, sau cùng tầm mắt lơ đãng dính chặt lên ghế phụ. Gã nhấn ga, xế hộp lao ra khỏi quỹ đạo của con đường mòn, lướt đi trên bãi cỏ. Cứ lao đi mà không chắc mình đang đi đâu, giống ngày ấy Logan đã làm. Lao đi, lao vun vút. 

Logan đã nói về nỗi sợ. Rất nhiều nỗi sợ. Cả vạn mũi tên đâm ra từ quá khứ kín kẽ của ông, xé gió qua màn sương để ông hiện lên rõ ràng hơn. Ông dường như một người muốn được yêu, hoặc ông là một người sợ phải chơi vơi trong nhân thế, hay là ông là người hèn nhát, chừng như ông còn là một người dũng cảm. Ông là tất cả những con người hiện lên trong mắt gã khi ấy, nhưng đồng thời ông cũng không là ai. Ông sẽ không yêu, ông vẫn cô đơn như thế, ông chỉ ở lưng chừng giữa hèn nhát và dũng cảm. Về sau rốt, ông không là ai cả, cũng chẳng thuộc về bất cứ nơi đâu.

*** 

Vụ điếu văn cuối cùng rơi vào tay John. Anh ta hoàn thành nó nhanh và bài bản cứ như từng viết một trăm bài điếu văn trước đó rồi, đọc lên nghe rất da diết, nhưng lại không có vẻ gì là nói về con người thật của Logan. John bảo phải vậy thôi, điếu văn đâu chỉ viết cho người chết, ta còn phải trưng nó cho người sống được nghe. Cần thiết bày ra những cái ai cũng biết, ai cũng đồng tình và ai cũng hiểu ý. David không viết được là do vậy, gã chỉ toàn hướng vào những ý niệm mà Logan để lại cho gã làm của riêng. 

Khách khứa dự tang đông hơn gã tưởng, mà hiển nhiên ngập tràn những gương mặt lạ lẫm. Một vài người lại quen thuộc tới đáng ngạc nhiên, ta thường có thể dễ dàng bắt gặp sự hiện diện của họ trên sóng truyền hình hoặc trên mặt báo. Họ tới, lẳng lặng nghe bài phát biểu của John rồi tỏ ý chia buồn, đôi khi gã tóm được giữa những cái nắm tay và vỗ vai khe khẽ một sự chần chờ nhất định. Họ díu mắt lại đánh giá theo kiểu thức tế nhị - vẫn là đánh giá - xong lia mắt quanh quất như chưa tỉnh ngủ. Biểu thị ấy lặp lại ở hết người này đến người khác tới mức tràn vào lòng gã xúc cảm nhiễu nhương phiền chán. Tưởng chừng họ vừa dự một cái đám tang mà họ còn không tin nó là đám tang.

Bất chấp vậy, hầu hết mọi người xong xuôi nghi thức tiễn biệt rồi cũng sớm thoái lui. Không có tiếng nức nở nào vì Hằng đã trốn biệt trong phòng, con bé chẳng đủ sức mà đối diện nữa.

Có một tay tóc vàng to cao tới muộn. Hắn cứ chằm chặp vào cái bình tro rồi lại đảo mắt sang David. Hồi lâu sau John chiếu cho hắn ánh nhìn mệt mỏi, hắn mới nói câu đầu tiên kể từ khi tới đến bây giờ. Vậy là hết rồi ư? David chẳng hiểu gì cả. Hắn còn muốn điều gì nữa sao? John nói thẳng ra, vậy anh muốn gì nữa nào? Hết rồi, chẳng còn gì nữa. 

Hắn tức tối rời đi. Gã cũng coi như cào bằng, không đoái hoài chuyện vụn vặt thoáng qua nữa.

Tang lễ kết thúc, hai người đi vào trong nhà và lục được từ tủ của Logan một chai rượu, chia nhau uống. Bếp núc của ông vẫn ngăn nắp như thuở ông còn sống. Được quá nửa chai thì John bắt đầu đi loanh quanh, dáo dác. Hết ngồi xuống rồi lại đứng lên như cái piston thủy lực. Lâu sau anh ta ngừng lại, tóm được cuốn Ngũ Luân Thư gã chưa kịp cất nằm chỏng chơ trên bàn trà. Động tác ấy triệt để làm tiêu biến hết men rượu trong người David. Gã định giựt nó lại.

Nhưng John thở hắt ra, rồi bật cười, chừng như biết mình đang nắm trong tay điều gì. 

Ai cũng muốn một mảnh của Logan, kể cả khi ông sống hay đã chết rồi. Gã không có gì để phản bác cả, cũng không định dằn vặt cho ra nghĩa lý sâu xa đằng sau câu nói. John ngồi xuống ghế, chừng như dứt khoát, rồi lại nao núng. Ngón tay cứ vần vò mép sách qua lại nhưng không mở ra. Anh ta nhìn chằm chặp nó như kẻ thù, lại như một người thân yêu. Mảnh nào của ông ấy cũng là nỗi đau. Họ cứ đòi hỏi Logan, xin được ông trao một mảnh, nhưng lại chẳng đủ sức để nhận lấy nỗi đau đi kèm. Thật là đáng buồn hết sức.

Chốc lát, John cũng đi mất.

 

Cậu biết đấy, cậu còn trẻ mà. Cuối cùng ông nói. Hãy chấp nhận lấy nỗi đau, như thế thì chúng sẽ không bao giờ có thể tổn thương cậu.

 

Ngày ấy David đã tưởng ông chỉ đơn thuần khước từ một cách khéo léo mọi tình cảm nảy nở giữa hai người họ. Gã choáng ngợp, không hiểu thấu triệt, cũng không nhận ra Logan đang sợ hãi. Hẳn là ông đã sợ những ký ức của bản thân ông, hãi hùng cái viễn cảnh phải đối mặt với tất cả những thứ ấy, vì e ngại nên khước từ, thậm chí lắng lo mà vẫn không ngừng khát khao được trao thân cho vực thẳm. Ông neo lại với cuộc sống bằng sự gián tiếp, không phải bằng hai tay, mà bằng nàng Itsu ở đâu đó trên trái đất, bằng John Wraith, bằng Hằng, có lẽ chăng bằng cả gã. Ông ở lại mà mong manh, tuyệt vọng chiến đấu với khối ung thư xúc cảm đã di căn tới tận con tim và lý trí.

Bánh xe ngừng ngay trên mỏm đá, dăm phân nữa là có khả năng rơi vào khoảng không thăm thẳm, đường kiến tạo mượt mà cho một sự rời xa.

 

Logan. 

 

Đột nhiên gã gọi. Ngắt quãng, gã đi ra khỏi xe để nhìn dáo dác. Vậy rồi thảng thốt, rồi gào lên, Logan!

 

Hiển nhiên ở cái chốn đồng không mông quạnh này sẽ chẳng ai buồn trả lời gã cả. Mà cái người tên là Logan cũng đã chết rồi, từ tận bảy ngày trước, gã còn mới làm lễ tiễn biệt ông xong. Thế mà gã vẫn gọi, một nỗi bức thiết trào lên họng, bật thốt thành tên. Một nỗi niềm cứ đau đáu mãi, khiến gã thấu hận cả Chúa trời. Gã đã liên tục phản tư, để rồi hiểu sự chết, chuẩn bị cho sự chết, nhưng cuối cùng lại không thể chấp nhận được nỗi đau đi kèm với sự chết. Gã thua vì gã đã nhận ra bài học quá muộn, thua vì không thể chấp nhận được nỗi đau.

Vậy ông thua vì điều gì? 

Hẳn David đã đánh mất Logan ở một quãng nào đó trên đường về. Gã không sẵn sàng để nghĩ về một trường hợp rằng bản thân chưa từng nắm giữ được Logan, chưa bao giờ là một trong những sự níu ông lại với cuộc sống. Hẳn là gã đã đánh mất ông. Người đàn ông ấy cứ trôi tuột khỏi bàn tay gã, vì gã không hiểu nổi ông, cũng không thể đau thay ông. Nên giờ gã vẫn quanh quẩn nơi đây, trên con xe của ông, đi con đường ông từng đi, nhớ lại những gì ông từng nói, để rồi day dứt một điều đã quá muộn. 

Ông thua vì điều gì nếu như ông đã chấp nhận nỗi đau? 

***

David ngủ quên trong bồn, chỗ cái chết của Logan không ngừng lại. Không như cái tên của nó, cái chết thậm chí còn đang sống. Sống hơn cả Logan, sống hơn cả gã, như là vẫn đang diễn ra, không phải trong thực tế, mà trong tâm trí băn khoăn của gã đàn ông còn ở lại. 

Hằng tìm thấy gã khi con bé nhận ra bố nó không có ở nhà, rồi cả con xe đậu nghiêng ngả trước cửa. Nó sang nhà Logan quá cố cốt chỉ để xem thử mà thôi thì thấy David nằm đấy, ở phòng tắm. Oằn mình, khư khư trong cái bồn như đang canh giữ lãnh địa. Thứ mà bố nó ôm trong lòng không gì khác ngoại trừ cái bình cốt của Logan, bao bọc kín kẽ bằng cả cơ thể và những ngón tay méo mó chẳng vẹn hình. Nó nhìn quanh, không có súng. Nó thở hắt ra, lặp lại trong đầu, không có súng. Bố nó vẫn còn hô hấp kia. Nhấp nhô dằn vặt, nhưng còn sống. Nó tưởng gã định bỏ đi cùng ông lão luôn rồi.

Một cơn ớn lạnh, và cả đau buồn nữa, trải dài trong nó. Con bé thốt lên ôi thật điên cả rồi , xong đóng cửa lại, lảo đảo đi về nhà. Nó túm lấy cái điện thoại rồi xoay số, định bụng gọi cho chú John, rồi chẳng biết sao nó lại thôi. Nó hết nhìn cái điện thoại lại nhìn tay. Tần ngần, nó nghĩ tới ông bố nó, nghĩ tới Logan. Hồi ông còn sống, nó từng ngưỡng mộ cái phong thái toàn năng của ông. Cái gì ông cũng làm được. Từ chuyện cỏn con như gấp giấy thành hình đến chuyện khó như dựng nhà hay sửa chữa xe, thậm chí kỹ năng bếp núc bây giờ của nó cũng là được thừa hưởng từ người đàn ông ấy. 

Một bữa ông đưa nó vào thành phố, trên xe nó hỏi tại sao dường như điều gì ông cũng thành thục quá đỗi. Logan ngậm cái điếu xì gà, nhịp nhịp tay trên vô lăng đảo liên hồi, mọi thứ không phải tự nhiên mà tới đâu nhóc ạ, ông nói, nhiều sự phải trải qua đau đớn gian nan thì ta mới học được. 

Hằng nghĩ tới bản thân mình đau đớn. Mười lăm tuổi, nó học được về cái chết, về hỏa thiêu, về bệnh “điên” dai dẳng của ông già hóa ra có thể đưa ông về nơi chín suối theo phương thức để lại nhiều dằn vặt khổ đau tới thế, đưa ông đi xa hơn cả quãng đường từ Mỹ trở lại Việt Nam. Nó ngờ rằng chú John cũng đã lâm cảnh khốn cùng, khi ông viết lại cái điếu văn rối loạn của David, và khi ông chuẩn bị trở về. Qua cửa sổ nó thấy mặt ông méo đi trong nhập nhằng bóng tối, ông vừa học được điều gì đó từ những di vật để lại của Logan. 

Và bố nó cũng đau, nó nhớ cái lúc bố nó khóc không thành tiếng - chỉ khi không có mặt nó mà thôi - cứ vừa khóc vừa lái xe trườn ra khỏi ngọn đồi. Và đau tới nỗi giờ vẫn đang nằm lịm đi trong cái bồn kia.

Nó không biết bố nó có tìm ra điều gì không.

***

Khi họ nhìn vào cái hồ, kể ra thì chỉ là một khoảng trống heo hút giữa những điểm nhìn bất tận, David cố gắng chống lại cái thôi thúc nắm lấy bàn tay của ông già đang gác hờ trên cỏ, chỉ cách gã chừng ba phân trở lại. Hoặc là ý niệm muốn nhặt điếu thuốc khỏi môi ông, cúi xuống để cảm nhận toàn bộ vị khói ông đang ngậm. Trong giấc mơ lần này, gã nảy sinh một khao khát khác, cái mong cầu không chỉ được nắm chặt, được nếm lấy, được thuộc về ông, mà là còn được cùng ông gánh lấy nỗi đau cùng cực, đang chứa trong cái cơ thể mà sau rốt chỉ còn lại 300 insơ khối ấy.

Một vài cánh chim chao trên mặt hồ, gã gọi. Này Logan. Ông dứt mắt khỏi những tầng ánh sáng bạc, nghiêng đầu nhìn lại, bằng cái ánh nhìn xanh thẳm cứa đứt cả tim gan, nhìn vào gã, không xuyên qua mà nhìn đi đâu cả, nhìn vào gã mà thôi. 

 

Rồi gã ôm lấy ông vào lòng, bao bọc lấy tất cả những gì là của ông, bằng hai bàn tay thiếu ngón, bằng cơ thể, bằng tình yêu, bằng cả nỗi đau của chính mình.

 

Gã sẽ ôm ông như thế.



Kết thúc.